Tăng lương cho giáo viên – khoảng cách giữa “giấc mơ” đến “hiện thực” của 4 đời Bộ trưởng Giáo dục
15 năm, 4 đời Bộ trưởng, có thể thấy một điểm chung trong giấc mơ của họ: Tăng thu nhập cho giáo viên. Nhưng giờ thì có người đã về hưu, nhiệm kỳ của Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đã đi qua được 07 tháng, ước vọng “sống được bằng lương” của các thầy cô giáo vẫn chưa thể trở thành hiện thực.
“Món nợ” của 4 đời Bộ trưởng Giáo dục với hơn 1 triệu giáo viên
Phiên tranh luận tại Quốc hội ngày 11/11 là lần đầu tiên tân Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Kim Sơn trả lời chất vấn trước Quốc hội. Một trong những Đại biểu tham gia tranh luận với Bộ trưởng Giáo dục đã nói: “Không thể mãi coi dạy thêm là vấn nạn của xã hội, vì đó là phao cứu sinh của giáo viên, xuất phát từ việc lương giáo viên còn quá thấp”.
Nếu như ai quan tâm đến giáo dục sẽ nhận thấy tại nhiều văn kiện của Đảng (Nghị quyết TW2 khóa VIII, Nghị quyết TW8 khóa IX và Nghị quyết số 29 NQ/TW 2013) đã khẳng định: Lương giáo viên phải được xếp ưu tiên cao nhất trong thang bảng lương.
Nếu ai quan tâm đến giáo dục chắc cũng không thể quên hồi tháng 11/2006, khi còn là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, ông Nguyễn Thiện Nhân từng phát biểu: “Bộ dự kiến sẽ trình Chính phủ đề án tăng lương cho giáo viên, để đến năm 2010 giáo viên có thể sống được bằng lương”. Lời hứa đó đã thắp sáng hy vọng cho hàng triệu giáo viên khắp từ nông thôn đến thành thị. Ngày 21/01/2009, ngay trước Tết Nguyên đán, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo kêu gọi doanh nghiệp, các nhà hảo tâm cùng chung tay đóng góp “để các thầy cô giáo có một cái Tết ít thiếu thốn hơn ngày thường, có được mâm cơm để cúng ông bà, tổ tiên, có được chiếc áo mới cho cha mẹ, con cái, có được chiếc bánh chưng, bánh tét ăn ngày mùng 1 Tết”. Năm đó, một giáo viên vùng cao được nhận 100.000 đồng thưởng Tết, đủ mua 3 kg thịt mông theo giá thị trường.
Khi trở thành tân Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ông Phạm Vũ Luận cũng nói: “Đã đề xuất cải cách lương giáo viên”. 05 năm sau, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chia sẻ: “Lương giáo viên là món nợ mà tôi day dứt”. Và tháng 4 rồi, trong những phát biểu đầu tiên sau khi nhậm chức, tân Bộ trưởng Bộ Bộ Giáo dục Nguyễn Kim Sơn tiếp tục bày tỏ: “Tôi mong đời sống người giáo viên được cải thiện hơn”. 15 năm, 4 đời Bộ trưởng, có thể thấy một điểm chung trong mục tiêu của họ: Tăng thu nhập cho giáo viên. Nhưng giờ thì ông Nguyễn Thiện Nhân đã về hưu, nhiệm kỳ của Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đã đi qua được 07 tháng, ước vọng “sống được bằng lương” của các thầy cô giáo vẫn chưa thể thực hiện.
Tôi không biết Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn sẽ thực hiện mong muốn cải thiện thu nhập cho giáo viên mà ông bày tỏ đầu nhiệm kỳ. Cứ cho rằng việc dạy thêm, học thêm chính thức được ngành giáo dục thừa nhận như một lĩnh vực kinh doanh hợp pháp như một cách để cải thiện thu nhập cho giáo viên, nhưng đó là với những giáo viên giảng dạy những bộ môn chính. Còn giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học, giáo viên dạy môn phụ thì sao? Ngành giáo dục không thể không đối diện với một sự thật rằng: Lương giáo viên của chúng ta chưa đủ sống. Và việc để giáo viên sống được với đồng lương của mình là trách nhiệm của ngành giáo dục.
Mỗi khi muốn tìm lời giải cho chuyện lương giáo viên, chúng ta thường hay nhìn về ngân sách nhà nước, nhưng nếu cứ lựa chọn cách làm này, đó sẽ là một sứ mệnh cực khó khả thi.
Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục, cho đến cuối năm 2019, cả nước có 1,24 triệu giáo viên công lập tất cả các cấp. Lương tối thiểu của giáo viên hiện giờ là 2,7 triệu đồng. Nên tôi lập một giả định: nếu tăng lương cho 1,24 triệu giáo viên ở mức 100 USD/người (khoảng 2,3 triệu đồng) thì ngân sách nhà nước sẽ phải gánh thêm 1,5 tỷ USD. Thật ra mức tăng này cũng chưa giúp giáo viên sống được bằng lương của mình. Nhưng đây đã là mức tăng cực kỳ lớn đối với năng lực hiện tại của ngân sách nhà nước. Đấy là chưa nói tới việc nếu đã tăng lương cho giáo viên mà không tăng lương cho bác sĩ, cho bộ đội, cho công an…thì các ngành đó chắc sẽ thắc mắc. Một bài toán quá khó với ngân sách nhà nước.
Nếu vừa muốn tăng lương cho giáo viên vừa muốn ngân sách nhà nước không phải chịu gánh nặng quá lớn, thì cách dễ nhất và nhanh nhất là tăng học phí. Nhưng với khu vực công, việc tăng học phí không phải là việc dễ dàng vì việc này dễ đi ngược lại chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, tăng học phí trường công sẽ là một trong những chính sách “phản dân túy – unpopulist” nhất. Chẳng nói đâu xa, hồi tháng 11/2020, chỉ một ngày sau khi công bố dự thảo Nghị định mới Đề xuất tăng học phí ở tất cả các cấp, Bộ Giáo dục đã phải rút đề xuất này vì phản ứng bất bình của dư luận. Giấc mộng tăng lương cho giáo viên của các Bộ trưởng Giáo dục còn gặp phải trở ngại lớn nữa, khi có một số tỉnh thành đang muốn miễn học phí cho học sinh cấp 1-2. Một số tỉnh thành khác thì đang cổ động cho việc không tăng học phí. Tôi cũng không thể đồng tình với đề xuất của các địa phương này, dù biết là nó sẽ hợp lòng rất nhiều người dân.
Đảm bảo thu nhập cho giáo viên là trách nhiệm của không chỉ ngành giáo dục mà còn cả hệ thống chính trị. Chừng nào chúng ta chưa thể cho hơn một triệu giáo viên công lập một mức lương hấp dẫn và sống được, thì chừng đó đừng nghĩ đến chuyện miễn học phí. Giáo viên như trụ cột của giáo dục, việc họ không thể sống được với nghề sẽ kéo tụt sự phát triển của giáo dục Việt Nam.
Cho nên, nếu vẫn lựa chọn giải pháp tăng lương giáo viên bằng ngân sách nhà nước, thì tăng học phí gần như sẽ là con đường duy nhất mà chúng ta có thể lựa chọn. Nếu tăng học phí 5-10% thôi thì ngân sách nhà nước đã dễ thở hơn rất nhiều và lương giáo viên chắc chắn sẽ được cải thiện. Đây là chuyện có thể thực hiện được (và nên thực hiện) đối với những tỉnh thành có thu nhập cao và tại những cơ sở giáo dục có uy tín. Nếu có thể, tôi đề nghị thu học phí theo mức thu nhập khai thuế của bố mẹ. Đành rằng nó không hoàn toàn chính xác được nhưng nó là thước đo khả thi nhất cho tình hình hiện giờ. Sau đó, Nhà nước có thể lập những quỹ giáo dục có nguồn thu từ việc tăng học phí, để phân bố cho các tỉnh nghèo không thể tăng học phí.
Cũng đừng khiến vấn đề lương giáo viên bị mặc nhiên coi là nhiệm vụ của Trung ương, mà phải coi nó là một chỉ tiêu giao cho các địa phương. Nếu Chính phủ xây dựng được một chỉ số đánh giá năng lực chính trị của các Bí thư/ Chủ tịch tỉnh, mà trong đó có một chỉ số là: thu nhập trung bình trên đầu người của một giáo viên khu vực công theo tỷ trọng GDP trên đầu người, rồi công bố hàng năm xếp hạng chỉ số này, thì tôi tin cũng sẽ tạo cơ chế khuyến khích và áp lực không nhỏ lên các lãnh đạo tỉnh nhằm tăng thu nhập giáo viên.
Việc này cũng giống như việc công bố chỉ số Năng lực cạnh tranh tỉnh (Competitive Provincial Index – CPI) hàng năm. Lãnh đạo nào mà có chỉ số đánh giá thấp thì sẽ mất uy tín. Đó sẽ là động lực cho họ trong việc nghĩ ra các giải pháp để giải quyết bài toán thu nhập của giáo viên: có thể là kêu gọi tài trợ của doanh nghiệp tỉnh nhà; cũng có thể là đưa ra các chính sách trao đổi như đổi dự án bất động sản lấy quỹ giáo dục, đổi đất giáo dục lấy quỹ phúc lợi giáo viên; hay xây dựng nhà ở ưu đãi để thu hút giáo viên giỏi… Dưới áp lực cạnh tranh, các tỉnh, thành phố sẽ phải đưa ra các chính sách khuyến khích người ta tham gia lực lượng lao động là giáo viên, tự khắc sẽ đẩy được thu nhập của giáo viên lên một mặt bằng mới.
Bài toán giáo dục mà công lập và tư nhân có thể cùng giải
Nhưng nếu mãi chỉ luẩn quẩn trong việc tìm giải pháp tăng lương cho giáo viên bằng các nguồn thu ngân sách, thì chúng ta sẽ dễ bị rơi vào cảnh lực bất tòng tâm. Mà cũng vì loanh quanh với cách tư duy truyền thống bao năm qua nên nhiều người quên rằng câu chuyện thu nhập của giáo viên thực chất có thể là bài toán mà cả giáo dục công lập và giáo dục tư nhân có thể cùng bắt tay nhau để giải.
Đầu tiên, cần phải giảm bớt áp lực cho khu vực giáo dục công bằng cách khuyến khích giáo dục tư nhân. Hiện giờ khu vực tư nhân mới chỉ chiếm 2,5% trong quy mô giáo dục Việt Nam. Nếu khu vực tư nhân chiếm 30% tổng số học sinh sinh viên, thì áp lực trả lương giáo viên khu vực công lên ngân sách nhà nước sẽ giảm đáng kể, đồng thời thu nhập của người làm giáo viên cũng sẽ được cải thiện ở khu vực tư nhân theo quy luật kinh tế thị trường.
Một trong những việc mà Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã làm được trong nhiệm kỳ nhiều tranh cãi của mình chính là ban hành Nghị định 86 (về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục). Đây là một cải cách có tính đột phát nhằm đẩy mạnh đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục, khuyến khích khu vực giáo dục tư nhân phát triển.
Dù vẫn còn một số theo tôi là hạt sạn trong Nghị định 86 (ví dụ như điều kiện để thành lập đại học tư nhân quá khắt khe) thì tôi vẫn cho đây là một bước tiến lớn của giáo dục Việt Nam, là bàn đạp quan trọng cho giáo dục tư nhân phát triển, cũng là một cách gián tiếp để cải thiện thu nhập của giáo viên khi để cơ chế thị trường điều chỉnh nó thay vì ngân sách nhà nước.
Với một chính sách đúng thì việc khu vực tư nhân đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục là việc không hề khó. Chỉ cần Nhà nước có chính sách khuyến khích thì chắc chắn khu vực tư nhân sẽ tham gia giải quyết được đáng kể nhiều vấn đề mà Giáo dục Việt Nam đang phải đối diện. Tuy nhiên để khuyến khích tư nhân đầu tư vào giáo dục thì lại không phải việc của một mình Bộ Giáo dục. Cần có chính sách thu hút, thủ tục xin giấy phép hoạt động cũng cần phải rút ngắn và gọn gàng hơn.
Ví như như doanh nghiệp tôi, chúng tôi phải mất 5-10 năm để xin được một cái giấy phép đại học và không ít hơn một năm để xin được giấy phép hoạt động trường phổ thông, trong khi đó tuyển sinh thì chỉ có theo mùa . Bên cạnh đó, đất dành cho giáo dục thì đắt khủng khiếp và chẳng có ưu đãi. Có quá nhiều rào cản làm nản chí những doanh nghiệp tư nhân muốn đầu tư giáo dục.
Một việc nữa mà Nhà nước và tư nhân có thể cùng làm để cải thiện thu nhập giáo viên là cho phép hợp tác công tư trong trường công. Trường công có lợi thế cơ sở hạ tầng rất tốt. Trong khi đó, chi phí đầu tư vào giáo dục tư nhân lại đắt đỏ nhất ở khâu đầu tư hạ tầng cơ sở. Là một người làm giáo dục tư nhân, tôi rất thấu hiểu nghịch cảnh này: chúng tôi phải đầu tư rất nhiều vào mặt bằng, phải đi thuê đất xây dựng trường học với giá đắt đỏ, trong khi nhiều trường công có quỹ đất rộng thì lại không sử dụng hết nó.
Nếu Nhà nước có thể thông qua cơ chế cho hợp tác công tư cho phép các trường công lập và các khu vực giáo dục tư nhân cùng tận dụng các nguồn tài nguyên trên cơ sở hai bên cùng có lợi: các trường công có thêm nguồn thu để tăng thu nhập cho giáo viên, còn các cơ sở giáo dục tư nhân có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư cho hạ tầng để tập trung đầu tư cho chất lượng giáo dục.
Giống như chuyện bệnh viện công cho khám dịch vụ, thời gian đầu khi chương trình này mới triển khai đã vấp phải không ít ý kiến phản đối. Nhưng giờ ai cũng thừa nhận sự thành công của mô hình này, khi bệnh viện vừa cải thiện được nguồn thu, còn bệnh nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế chất lượng cao cũng được đáp ứng, mà vẫn không ảnh hưởng tới các bệnh nhân khác.
Với giáo dục, khối tư nhân có thể cung cấp các chương trình giáo dục quốc tế theo nhu cầu của học sinh và trả lại tiền sử dụng cơ sở vật chất cho trường qua quỹ Công đoàn. Quỹ này có thể phân phối lại thu nhập cho những giáo viên có thu nhập thấp trong trường.
Khá nhiều thành phố lớn đã và đang áp dụng hình thức hợp tác này. Hiện nay Tập đoàn EQuest chúng tôi cũng hợp tác với nhiều trường công lập để triển khai những chương trình giáo dục quốc tế đào tạo 100% bằng Tiếng Anh, chất lượng được công nhận theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng mức học phí chỉ 500 nghìn/tháng/học sinh và được phụ huynh lẫn học sinh đặc biệt hưởng ứng.
Có một số quan điểm cho rằng việc này tạo ra bất bình đẳng trong xã hội khi cùng một trường công lại có em được học chương trình thường, có em được học chương trình cao cấp. Theo tôi, việc bắt các em phải chấp nhận một chương trình giáo dục cào bằng là một cách nhìn thiển cận và bảo thủ. Dù sao có nhiều học sinh giỏi Toán hay tiếng Anh trong một trường mà Nhà nước không phải trả thêm tiền vẫn tốt hơn chứ nhỉ? Sao lại kêu là bất bình đẳng? Miễn là chúng ta đừng hành xử bất bình đẳng.
Nếu bệnh viện công có thể thu tiền dịch vụ khi khám giáo sư, tiến sĩ thì nhiều phụ huynh cũng sẵn sàng trả thêm một chút tiền để con cái họ có thể học thêm một vài kỹ năng nào đó? Xin đừng bảo các phụ huynh học sinh công lập nên cho con ra trường tư mà học, vì chi phí trường tư có thể vượt năng lực chi trả của họ rất nhiều, nhưng với trường công nơi có sẵn cơ sở hạ tầng vật chất thì chi phí có thể giảm đáng kể. Giấc mơ tiếp cận chương trình giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ không còn quá xa vời với các học sinh công lập chỉ với mức học phí rẻ nếu chúng ta ủng hộ hợp tác công tư trong giáo dục.
Chuyện hợp tác công tư đã phổ biến ở nhiều quốc gia, nhưng nó vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam. Tuy vậy, nếu cân nhắc những lợi ích mà nó mang lại cho cả các cơ sở giáo dục công lập, khối giáo dục tư nhân, học sinh và giáo viên, thì tôi thấy không có lý do gì chúng ta phải ngần ngại cả.
Phát ngôn đầu tiên của Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Kim Sơn khi nhậm chức là mong muốn cải cách lương giáo viên. Tôi hiểu trăn trở của ông, vì nó cũng là trăn trở của tất cả những người làm giáo dục. Nên tôi viết những chia sẻ này, hy vọng Bộ trưởng sẽ cân nhắc đến việc khuyến khích giáo dục tư nhân như một lời giải cho bài toán này – bài toán mà nhiều đời Bộ trưởng trước đã buộc phải để lại cho những người kế nhiệm.
Tóm tắt
